COVID-19 đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới thương mại toàn cầu, và vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại. Dịch bệnh đã bộc lộ những hạn chế trong hoạt động logistics vì chuỗi cung ứng bị gián đoạn do quá phụ thuộc vào một số trung tâm sản xuất lớn và thị trường nhất định. Đã có nhiều sự thay đổi để thích ứng, xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng toàn cầu dự báo sẽ còn nhiều thay đổi chuyển trong thời gian tới.
Mục lục
Các xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng hậu Covid – 19
Khi dịch bệnh xảy ra, hoạt động logistics bị ngắt quãng bởi nhiều lý do. Trong đó nổi bật là việc cung ứng các thiết bị, sản phẩm thiết yếu bị gián đoạn, đình trệ. Nguyên nhân là bởi mạng lưới chuỗi cung ứng toàn cầu bị tê liệt vì việc giao thương giữa các quốc gia trở nên gắt gao để phòng ngừa dịch bệnh.
Lúc này, hạn chế của chuỗi cung ứng mới bắt đầu lộ rõ. Đó là chuỗi cung ứng toàn cầu nói chung, và nhiều chuỗi cung ứng khu vực quá phục thuộc vào một hoặc một số trung tâm sản xuất, hoặc một thị trường lớn nhất định, mà trong trường hợp này là Trung Quốc. Xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng toàn cầu hậu Covid – 19 chính vì thế đã dần có nhiều thay đổi để hạn chế tối đa các rủi ro tương tự.
Thứ nhất, dịch chuyển chuỗi cung ứng trước hết sẽ làm thay đổi xu hướng đầu tư.
Theo đó, các doanh nghiệp sẽ có xu hướng di chuyển một phần hoặc thậm chí là toàn bộ bộ máy sản xuất về nước (reshoring). Hoặc cũng có thể chuyển sang một nước nào đó gần hơn trong khu vực (near-shoring). Điều này nhằm giảm sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc.
Song song đó, các chuỗi cung ứng sẽ được sắp xếp cơ cấu lại dựa trên việc triển khai outsourcing (mở rộng mạng lưới nhà cung cấp). Nhờ đó mà rủi ro sẽ được giảm xuống nhờ có nguồn sản phẩm, linh kiện từ nhiều nguồn khác nhau mà không cần phải dịch chuyển vốn đầu tư hay sản xuất.

Thứ hai, đưa về nước các công đoạn thượng nguồn hoặc công nghệ cao.
Trong khi đó, các công đoạn hạ nguồn, công nghệ thấp, lắp ráp hoặc gia công sẽ được phân tán rủi ro bằng cách dịch chuyển sang nhiều nước. Việc này cũng góp phần giúp các doanh nghiệp tối ưu hóa chi phí sản xuất. Các lĩnh vực đang dự báo sẽ có nhiều dịch chuyển như dệt may, phụ tùng, linh kiện ô-tô, thiết bị điện tử, viễn thông, thiết bị y tế, tài chính, dược phẩm, năng lượng, bất động sản,…
Thứ ba, các đối tượng dịch chuyển đầu tư hoặc chuỗi cung ứng thường thuộc ba nhóm.
Một là các tập đoàn đang tiếp cận thị trường ngoài Trung Quốc muốn tối ưu thêm về chi phí. Hai là các tập đoàn đang đầu tư nhiều vào Trung Quốc và muốn hạn chế các rủi ro. Ba là các tập đoàn đang chịu ảnh hưởng từ cuộc cạnh tranh Mỹ – Trung. Nhiều “ông lớn” trong lĩnh vực công nghệ, điện tử như Foxconn, Apple, Intel, Wistron, Qishda, Pegatron, Inventec,… đã và đang mở rộng đầu tư sản xuất ra nhiều nước ngoài Trung Quốc. Thị trường mà các tập đoàn này chọn lựa thường là Ấn Độ, Mexico, các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
Về cơ bản, xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc đã diễn ra từ lâu. Và dưới tác động của dịch bệnh, quá trình này được thúc đẩy mạnh hơn nhằm phân tán rủi ro. Tuy nhiên thực tế cho thấy, Trung Quốc vẫn là “ông lớn” dẫn đầu về thị trường lẫn sản xuất trong chuỗi cung ứng toàn cầu mà chưa có quốc gia nào có thể thay thế được. Dù được đẩy mạnh hơn, nhưng làn sóng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng vẫn chưa thực sự mạnh mẽ và dứt khoát. Nhiều doanh nghiệp thuộc nhóm 500 tập đoàn hàng đầu thế giới (Fortune 500) cho thấy họ vẫn chưa sẵn sàng dịch chuyển phần lớn hoặc toàn bộ quá trình sản xuất ra khỏi Trung Quốc.
Xu hướng trước mắt vẫn là hoạt động tại Trung Quốc, song song với tìm kiếm thêm các quốc gia khác để đầu tư. Và các sản phẩm/chi tiết/công đoạn hạ nguồn được dịch chuyển dần ra nước ngoài. Các yếu tố thượng nguồn được giữ lại Trung Quốc hoặc được đưa về nước như các nước EU, Mỹ, Nhật Bản,….
Chính sách của các quốc gia trước xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng
Trước làn sóng tiềm năng về dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng, các nước cung cấp vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang có nhiều chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư về nước.
Theo đó, Mỹ miễn giảm thuế từ 25% xuống còn 21% cho các doanh nghiệp Mỹ, cải cách thủ tục cấp phép đầu tư để tăng khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp như năng lượng, nhôm, thép, oto,…
Trong khi đó các nước EU đẩy mạnh kinh tế “tự chủ chiến lược”. Nếu Đức, Italia siết chặt các quy định đầu tư ra nước ngoài đối với các ngành chiến lược; Thì Pháp triển khai chiến lược “sản xuất tại Pháp” các ngành có giá trị gia tăng cao như oto, công nghệ số, hàng không nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất trong nước.
Đối với Nhật Bản, chính quyền chi ngân sách lên tới 2 tỷ USD nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp đưa sản xuất từ Trung Quốc về nước, đồng thời hỗ trợ khoảng 200 triệu USD giúp các doanh nghiệp Nhật Bản đa dạng hóa nguồn cung, di chuyển sản xuất với các ngành như điện tử, phụ tùng oto, thiết bị y tế, kim loại hiếm,…. Hàn Quốc cũng đã ban hành các luật nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đã đầu tư ở nước ngoài quay về Hàn Quốc kinh doanh, sản xuất.
Ngoài ra, một số nước cũng đã ban hành các chính sách cụ thể nhằm tăng cường ngăn chặn các nhà đầu tư nước ngoài thâu tóm doanh nghiệp trong nước, đặc biệt trong các lĩnh vực quan trọng như công nghệ, an ninh quốc phòng, kết cấu hạ tầng, …
Xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng cũng sẽ tạo nên nhiều cơ hội thuận lợi cho các quốc gia ngoài Trung Quốc để thu hút đầu tư. Các nước tiếp nhận FDI đang nỗ lực đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư để “lọt vào mắt xanh” của các tập đoàn.
Ví dụ như Ấn Độ xem xét miễn thuế đối với các dự án đầu tư mới trên 500 triệu USD, miễn thuế 4 năm đối với các dự án đầu tư trên 100 triệu USD trong các ngành như da giày, dệt may, chế biến thực phẩm. Thái Lan ưu tiên thu hút đầu tư các dự án công nghệ cao, lĩnh vực thiết bị y tế. Indonesia thiết lập Khu công nghiệp Brebes ưu tiên cho doanh nghiệp Mỹ, ban hành các chính sách ưu đãi đầu tư. Malaysia cũng có những chính sách ưu đãi thuế dành cho các lĩnh vực chiến lược.
Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trước xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng
Trước làn sóng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng hậu Covid – 19, Việt Nam cũng như nhiều nước trong khu vực có nhiều lợi thế để tranh thủ sự đầu tư của các tập đoàn lớn nước ngoài. Riêng tại Việt Nam, sở hữu nguồn lao động trẻ dồi dào, nền kinh tế – xã hội ổn định, thị trường đông dân có thu nhập ngày càng cải thiện,…chính là những điểm cộng để tăng tính cạnh tranh.
Ngoài ra, Việt Nam đang tham gia vào mạng lưới các hiệp định thương mại tự do (FTA) – đây được đánh giá là một lợi thế lớn giúp thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư. Chẳng hạn, FTA Việt Nam – EU (EVFTA) có hiệu lực từ tháng 8-2020 giúp Việt Nam có đặc quyền tiếp cận thị trường EU rộng lớn, đi trước hầu hết các nước trong khu vực từ 7 – 10 năm. Theo đó, đạt được cam kết giảm thuế quan đối với gần 100% dòng thuế. Chính vì vậy, các nhà đầu tư đang muốn tiếp cận thị trường EU chắc chắn sẽ dành nhiều sự quan tâm hơn đối với Việt Nam.
Đặc biệt, việc khống chế thành công Covid-19, song song đó là khả năng duy trì và phát triển kinh tế ổn định trước dịch bệnh đã giúp uy tín của Việt Nam ngày càng nâng cao, được các nước đánh giá là một điểm đến đầu tư an toàn, có khả năng thích ứng tốt với những biến động của thế giới. Trong khi các nước bạn trong khu vực như Ấn Độ, Indonesia, Philippines, Campuchia,…đang vất vả khống chế Covid.
Có thể nói, Việt Nam đang có cơ hội rất lớn để tiếp cận các tập đoàn trong cuộc cạnh tranh đón đầu xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng toàn cầu hậu Covid 19. Nếu phát huy và khai thác tốt các lợi thế trên, sẽ thu hút rất nhiều tập đoàn lớn trên thế giới chuyển dịch đầu tư về Việt Nam. Thông qua đó, nền kinh tế sẽ có cơ hội phát triển mạnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các lĩnh vực điện tử, dệt may, linh kiện ô-tô nếu được tăng tốc đầu tư trong làn sóng dịch chuyển này sẽ còn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người dân, từ đó đảm bảo an sinh xã hội, ổn định đời sống người dân.
Và song song với các cơ hội, Việt Nam cũng có không ít các khó khăn và thách thức phải đối mặt. Theo đó, hiện nay môi trường đầu tư của nước ta vẫn đang còn nhiều hạn chế, như điểm yếu về kết cấu hạ tầng, năng lực quản lý, mạng lưới kết nối logistics,… Thủ tục đầu tư còn nhiều khó khăn, lao động dồi dào nhưng chuyên môn chưa cao, … cũng là những vấn đề cần được sớm khắc phục. Vì các điểm yếu này sẽ khiến các nhà đầu tư e ngại trong việc chuyển giao các công đoạn thượng nguồn hoặc các bước công nghệ cao trong mạng lưới sản xuất cho Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ. Điều này sẽ khiến Việt Nam dễ bị lún sâu vào bẫy gia công, lắp ráp, vụt mất cơ hội đón các dòng đầu tư và chuỗi cung ứng chất lượng.
Vừa qua, Nghị quyết số 50-NQ/TW, ngày 20-8-2019, của Bộ Chính trị (khóa XII), đã nhấn mạnh nỗ lực của Việt Nam trước xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng toàn cầu hậu Covid – 19. Cụ thể, nội dung nghị quyết “Về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030”, chủ trương thu hút các nhà đầu tư có chọn lọc. Theo đó dựa vào các tiêu chí chất lượng, hiệu quả và bảo vệ môi trường để đánh giá. Ưu tiên các dự án ứng dụng công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có tác động lan tỏa, có giá trị gia tăng cao, góp phần kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Như vậy, để tạo môi trường lý tưởng thu hút các nhà đầu tư, các dòng FDI hiện nay, Nhà nước cần chú trọng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường. Trước mắt là hoàn thiện chính sách, pháp luật và các cơ chế liên quan đến đầu tư; đẩy mạnh xúc tiến đầu tư để tiếp cận các dòng vốn có chất lượng, tiếp cận vận động các tập đoàn lớn, chọn lọc các dự án đầu tư nước ngoài, không tiếp nhận các dự án đi ngược với chủ trương, trái với quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội hoặc không đáp ứng được tiêu chuẩn, gây ô nhiễm môi trường…

Ngoài ra, việc phát triển kết cấu hạ tầng, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao năng lực khoa học – công nghệ cũng như tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước cũng là những việc cần đẩy mạnh. Vì thế các cơ quan liên quan cần sớm đưa ra các quy định và chính sách ưu đãi cụ thể để tăng sức mạnh nội tại, thu hút đầu tư.
Cuối cùng, bên cạnh các biện pháp trước mắt, thì bài toán lâu dài của Việt Nam cần sớm giải quyết đó là cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực của doanh nghiệp trong nước để có thể liên kết với các tập đoàn công nghệ toàn cầu. Nếu thực hiện được các điều trên, Việt Nam sẽ hạn chế được tối đa các thách thức, tăng tính cạnh tranh để đạt được nhiều cơ hội tốt trong làn sóng xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng toàn cầu hậu Covid – 19.